Về cơ bản, Fractals là một cấu trúc bao
gồm nhiều phần giống nhau. Các nhà toán học gọi đây là sự tự đồng dạng.
Bạn không phải đi đâu xa để tìm Fractals, nó ở ngay cạnh bạn, trong
thiên nhiên của chúng ta.
Một vỏ sò biển là một Fractal. Một mảnh tuyết là một Fractal. Một đám hay tia chớp cũng là một Fractal.
Một điểm quan trọng của sóng Elliott là
vì chúng là những Fractals. Cũng giống như vỏ sò biển, hay mảnh tuyết,
sóng Elliott có thể chia thành nhiều sóng Elliott nhỏ hơn.
Bạn đã sẵn sàng nghiên cứu về Elliott chứ? Nào chúng ta bắt đầu!
I. CẤU TRÚC SÓNG ELLIOTT
MÔ HÌNH SÓNG 5-3
Ông Elliott đã chỉ ra rằng thị trường có xu hướng di chuyển trong cái mà ông gọi là mô hình sóng 5-3.
Mô hình 5 sóng đầu được gọi là sóng đẩy (impulse wave).
Mô hình 3 sóng sau được gọi là sóng hiệu chỉnh (corrective wave).
Trong mô hình 5 sóng đầu, sóng 1, 3, 5 là
các sóng đẩy (impulse waves) – cùng hướng với xu hướng chính, trong khi
đó sóng 2, 4 có tính hiệu chỉnh (corrective waves).
Đầu tiên hãy xem mô hình 5 sóng đẩy với hình vẽ bên dưới:
Nếu bạn còn thấy chưa rõ ràng, vậy ta sẽ thêm 1 chút màu sắc nhé:
Giờ đây bạn có thể nhận thấy một cách rõ
ràng 5 sóng, mỗi sóng tương ứng với một màu. Trong phạm vi tài liệu này,
chúng ta sẽ sử dụng cổ phiếu để minh họa. Ngoài ra, lý thuyết Elliott
có thể dễ dàng áp dụng cho tiền tệ, trái phiếu, vàng, dầu, ngoại hối…
Dưới đây là mô tả ngắn gọn về mỗi sóng:
Sóng 1
Sóng 1 hiếm khi rõ ràng khi hình thành.
Khi sóng đầu tiên của đợt thị trường tăng bắt đầu, tin cơ bản gần như là
tiêu cực ở toàn cầu. Xu hướng trước đó được xem là vẫn còn hiệu lực.
Tuy nhiên giá bắt đầu tăng nhẹ do các nhà đầu tư nhận định giá đang ở
mức thấp và là thời điểm thích hợp để mua vào. Khối lượng giao dịch
dường như tăng một chút khi giá tăng, nhưng không đủ để cảnh báo các nhà
phân tích kỹ thuật.
Sóng 2
Tại thời điểm này, 1 phần các nhà đầu tư
mua vào tin rằng cổ phiếu đã tăng vượt mức giá trị của nó và quyết định
chốt lời, điều này khiến các cổ phiếu giảm điểm. Thường là thông tin vĩ
mô, vi mỗ vẫn xấu. Cảm xúc giá giảm nhanh chóng hình thành, và “đám
đông” vẫn tin là thị trường vẫn đi xuống. Tuy nhiên, một số dấu hiệu
tích cực xuất hiện: khối lượng giao dịch thấp khi giá đi xuống, giá
không giảm thấp hơn 61,8% độ dài của sóng 1.
Sóng 3
Sóng 3 thông thường là sóng lớn nhất và
mạnh nhất trong một xu hướng (sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất).
Thông tin tích cực và nhà phân tích cơ bản dự báo tích cực về lợi nhuận
của doanh nghiệp cũng như triển vọng thị trường. Các nhà đầu tư tham gia
mạnh vào thị trường, giá nhanh chóng tăng vượt qua đỉnh của sóng 1 cùng
với sự gia tăng của khối lượng giao dịch.
Sóng 4
Sóng 4 thường rõ ràng là sóng điều chỉnh
giảm khi các nhà đầu tư đã nhận được 1 tỷ suất sinh lợi như kỳ vọng đồng
thời bắt đầu xuất hiện cảm giác lo ngại khi thị trường đã tăng điểm
mạnh ở sóng 3 dẫn đến hành vi chốt lời hàng loạt (mặc dù có thể không có
thông tin xấu trong giai đoạn này). Sóng 4 thường là sóng phức tạp và
khó dự đoán nhất.
Sóng 5
Sóng 5 là sóng cuối cùng trong xu hướng
chính. Tiếp tục là những thông tin tích cực về triển vọng vĩ mô, vi mô.
Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường đẩy giá tăng trở lại vượt qua
đỉnh của sóng 3. Tuy nhiên sóng 5 thường không tăng mạnh bằng sóng 3 và
khối lượng giao dịch thường thấp hơn sóng 3. Vào cuối sóng 5, bắt đầu
xuất hiện dấu hiệu phân kỳ của các chỉ báo dao động như Stochastic,
MACD,…
Sóng điều chỉnh ABC
Khi sóng đẩy hoàn thành, thị trường sẽ
điều chỉnh sau đó và đổi chiều bởi 3 sóng ngược xu hướng chính. Chữ được
sử dụng thay cho số để phân biệt giữa sóng đẩy và sóng điều chỉnh. Dưới
đây là ví dụ mô hình 3 sóng điều chỉnh.
Chúng tôi lấy ví dụ về thị trường tăng
điểm không có nghĩa lý thuyết sóng Elliott không thể áp dụng cho thị
trường giảm điểm. Mô hình sóng 5-3 cũng có thể như sau:
Theo Elliott, có 21 mô hình sóng điều chỉnh ABC từ đơn giản đến phức tạp.
“Trời đất ơi, 21 ư, làm sao tôi có thể nhớ hết tất cả!”
Thực tế nó khá dễ dàng. Điều tuyệt vời về
sóng Elliott là bạn không phải ghi nhớ tất cả 21 dạng sóng điều chỉnh
ABC bỏi vì nó được hình thành bởi 3 mẫu rất đơn giản và dễ hiểu.
a) Mẫu Zig-Zag
Mẫu Zig-Zag là những đường giá di chuyển
dốc ngược lại với xu hướng hiện tại. Sóng B thường có chiều dài ngắn
nhất so với sóng A và C. Mô hình Zig-Zag có thể xảy ra 2 hoặc 3 lần
trong một lần điều chỉnh (từ 2 đến 3 mô hình zig-zag gắn với nhau).
Giống như tất cả các sóng, mỗi sóng trong mô hình zig-zag có thể chia
thành 5 mô hình sóng.
b) Mẫu phẳng
Mẫu phẳng đơn giản là sóng đi ngang. Nhìn
chung thì độ dài của sóng là giống nhau và sóng B là đảo chiều của sóng
A và sóng C. Đôi khi sóng B có thể đi xa hơn điểm bắt đầu của sóng A.
c) Mẫu tam giác
Mẫu
tam giác là mô hình điều chỉnh bởi sự hội tụ hay phân kỳ các đường xu
hướng. Tam giác được tạo bởi 5 sóng di chuyển ngược với xu hướng. Những
tam giác này có thể đối xứng, giảm dần, tăng dần, hoặc mở rộng.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA SÓNG ELLIOTT
1. SÓNG TRONG SÓNG
Như chúng ta đã đề cập trước đó, các sóng
Elliot là các Fractals. Môi sóng được tạo bởi các sóng phụ. Tôi sẽ cho
bạn xem một bức tranh khác về sóng Elliott.
Thú vị phải ko ? Bạn có thấy là sóng 1,3,
và 5 được tạo bởi mô hình 5 sóng đẩy trong khi sóng 2 và 4 được tạo bởi
mô hình 3 sóng điều chỉnh? Hãy nhớ là mỗi sóng đều bao gồm các mô hình
sóng nhỏ hơn. Các mô hình này lập lại chính nó. Mãi mãi…
Để dễ dàng nhận diện những sóng này, lý
thuyết sóng Elliott đã phân ra một loạt các loại sóng theo thứ tự từ lớn
nhất đến nhỏ nhất:
1. Grand Supercycle: kéo dài từ vài thập kỷ đến vài thế kỷ
2. Supercycle: kéo dài từ vài năm đến vài thập kỷ
3. Cycle: kéo dài từ vài quý đến vài năm
4. Primary: kéo dài từ vài tháng đến vài năm
5. Intermediate: kéo dài từ vài tháng đến vài quý
6. Minor: kéo dài từ vài tuần đến vài quý
7. Minute: kéo dài từ vài tuần tuần đến vài tháng
8. Minuette: kéo dài từ vài ngày đến vài tháng
9. Subminuette: kéo dài từ vài ngày đến vài tuần
10. Micro: kéo dài từ vài giờ đến vài ngày
11. Submicro: kéo dài từ vài phút đến vài giờ
2. SÓNG ĐẨY MỞ RỘNG
Một điều mà bạn cần phải biết về lý
thuyết sóng Elliott là một trong 3 sóng đẩy sẽ luôn luôn được mở rộng.
Đơn giản là sẽ luôn có một sóng dài hơn hai sóng còn lại.
Theo Elliott, thường sóng thứ năm sẽ được
mở rộng. Tuy nhiên, theo thời gian nó đã thay đổi và rất nhiều người
bắt đầu cho là sống thứ 3 là một sóng mở rộng.
Dưới đây là các dạng sóng mở rộng.
3. "SÓNG CỤT" (TRUNCATION)
Thường thường, sóng 5 phát triển trong
điều kiện quá bán khi các nhà đầu tư đã nhận diện sóng Elliott một cách
khá rõ ràng và họ biết rằng đây có thể là con sóng cuối cùng trong xu
hướng tăng. Điều này đôi khi có thể làm cho chiều cao của sóng 5 thấp
hơn sóng 3. Được gọi là "sóng cụt" (truncation)
4. "TAM GIÁC CHÉO" (DIAGONAL TRIANGLE)
Tam giác chéo là trường hợp đặc biệt mà
sóng 4 có thể đi vào biên độ của sóng 1. Nói một cách khác là sóng 4 và
sóng 1 chéo nhau - đây cũng là nguyên nhân xuất hiện tên gọi của nó là
"tam giác chéo"
Quy tắc:
- Mô hình Diagonal Triangle bao gồm 5 sóng.
- Sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất so với các sóng khác.
- Sóng 4 và Sóng 1 chéo nhau (vì thế nó có tên gọi là Tam giác chéo), tức là đáy Sóng 4 đi vào biên độ của Sóng 1.
- Sóng 4 không vượt qua điểm khởi nguồn của Sóng 3.
- Sóng 5 phải vượt qua điểm cuối của Sóng 3.
Tam giác chéo được phân chia thành 2 loại: Leading Diagonal Triangle và Ending Diagonal Triangle
a) Ending Diagonal Triangle
Mô hình sóng Ending Diagonal Triangle thuộc dạng mô hình sóng chủ xảy ra ở các sóng cuối một cấp độ sóng như sóng 5 hay sóng C. Không nên nhầm lẫn nó với các mô hình tam giác điều chỉnh.
Mô hình sóng Ending Diagonal Triangle là
hiện tượng tương đối hiếm đối với các cấp độ sóng lớn mà thường xuất
hiện ở các cấp độ sóng thấp hơn trên các đồ thị giá trong ngày
(intraday). Thường thì theo sau mô hình Diagonal Triangle là sự thay đổi
mạnh về xu hướng thị trường.
Vị trí xuất hiện: Mô hình Ending Diagonal Triangle xuất hiện ở các sóng 5, C.
Cấu trúc sóng bên trong: Mô hình Ending Diagonal Triangle bao gồm 5 sóng và có cấu trúc sóng bên trong theo dạng 3-3-3-3-3.
b) Leading Diagonal Triangle

Mô hình sóng Leading Diagonal Triangle thuộc dạng mô hình sóng chủ thường xảy ra ở đầu một cấp độ sóng như sóng 1 hay sóng A hay
nói cách khác nó nằm trong sóng 1 hoặc sóng A. Không nên nhầm lẫn nó
với các mô hình tam giác điều chỉnh. Điểm khác của mô hình này với mô
hình Ending Diagonal Triangle là các sóng 1, 3 và 5 có cấu trúc sóng bên
trong gồm 5 sóng chứ không phải 3 sóng như mô hình Ending Diagonal
Triangle.
Cũng như mô hình sóng Ending Diagonal
Triangle thì mô hình sóng Leading Diagonal Triangle là hiện tượng tương
đối hiếm đối với các cấp độ sóng lớn mà thường xuất hiện ở các cấp độ
sóng thấp hơn trên các đồ thị giá trong ngày (intraday). Thường thì theo
sau mô hình Diagonal Triangle là sự thay đổi mạnh về xu hướng thị
trường.
Vị trí xuất hiện: Mô hình Leading Diagonal Triangle xuất hiện ở các sóng 1 và A.
Cấu trúc sóng bên trong: Mô hình Leading Diagonal Triangle bao gồm 5 sóng có cấu trúc sóng bên trong theo dạng 5-3-5-3-5.
III. ĐO LƯỜNG SÓNG
Sóng 1
Sóng 1 có điểm
xuất phát từ thị trường con gấu (suy thoái). Do đó, sóng 1 ít khi được
nhận biết ngay từ đầu. Mục đích của việc đo lường sóng 1 để tìm ra tỷ lệ
của các sóng còn lại. Mặc dù không có một quy tắc nhất định nào trong
tỷ lệ của các sóng còn lại, nhưng có những tác dụng nhất định trong việc
ước tính độ dài của các con sóng khác. Trước khi nói về các tỷ lệ này,
chúng ta cần phải đến Fibonacci trước.
Tỷ lệ Fibonacci
là những tỷ lệ toán học được tính ra từ các con số của dãy số Fibonacci.
Dãy số Fibonacci được tìm ra bởi Leonardo Fibonacci từ năm 1180 trước
công nguyên. Dãy số Fibonacci được sử dụng rất nhiều tronng các lĩnh vực
như máy móc, vũ trụ, chứng khoán,… Đây là cơ sở sản sinh ra các tỷ lệ
Fibonacci với mục đích dùng nó để hỗ trợ giao dịch.
Các tỷ lệ Fibonacci được dùng thường xuyên nhất là:
1 1.618 2.618 4.23 6.85 (mở rộng)
0.14 0.25 0.5 0.618 (thoái lui)
Sóng 2
Sóng 2 thường thoái lui về mức 0.5 hoặc 0.62 (làm tròn từ 0.618) so với sóng 1.
Sóng 3
Sóng 3 thường có
quan hệ tỷ lệ với sóng 1 theo một trong ba trường hợp sau: Sóng 3 = 1.62
sóng 1; Hoặc = 2.62 sóng 1; hoặc 4.25 sóng 1
Các tỷ lệ thường thấy nhất là 1.62 và 2.62. Tuy nhiên, nếu sóng 3 là sóng mở rộng thì các tỷ lệ 2.62 và 4.25 phổ biến hơn.
Sóng 4
Sóng 4 thường có
quan hệ với sóng 3 theo một trong ba trường hợp sau: sóng 4 = 24% sóng
3; hoặc = 38% sóng 3; hoặc bằng 50% sóng 3
Các tỷ lệ 24% và 38% là phổ biến nhất cho sóng 4
Sóng 5
Sóng 5 có hai quan hệ tỷ lệ theo hai trường hợp:
Nếu độ dài sóng 3 > 1.62 sóng 1 thì tỷ lệ của sóng 5 như sau: sóng 5 = sóng 1; hoặc = 1.62 sóng 1; hoặc = 2.62 sóng 1
Nếu độ dài sóng
3 <1 .62="" 0.62="" 1-3="" 1.62="" 1="" 3="" 5="sóng" a="" b="" c=""
ho="" i="" kh="" khi="" l="" m="" n="" ng="" nh="" r="" s="" span=""
t="" th="" u=""><1
.62="" 0.62="" 1-3="" 1.62="" 1="" 3="" 5="sóng" a="" b="" c="" ho=""
i="" kh="" khi="" l="" m="" n="" ng="" nh="" r="" s="" span="" t=""
th="" u="">
Các
quá trình điều chỉnh có xu thế đưa giá trở lại khu vực sóng thứ 4 ở cấp
độ sóng nhỏ hơn và cũng thường vượt qua khu vực này và đi vào khu vực
sóng thứ 2 ở cấp độ sóng nhỏ hơn. Nếu quá trình điều chỉnh phát triển
theo mô hình Flat (FL), mô hình Contracting Triangle (CT) thì quá trình
điều chỉnh thường giới hạn trong phạm vi 38.2% – 50.0% và thực tế này
đúng thậm chí quá trình điều chỉnh là sóng thứ 2.
Một
mức hồi lại không quá 38.2% quá trình dao động trước đó cho thấy một
sức mạnh tiềm ẩn của xu hướng chính. Mức hồi 50.0% thường xuất hiện
trong chuỗi 5 sóng nhưng không xuất hiện thường xuyên như mức hồi 61.8%.
Tuy nhiên mức hồi 50.0% lại rất phổ biến ở những sóng điều chỉnh tăng
trong thị trường đầu cơ giá xuống ví dụ như sóng B trong mô hình Zigzag
(ZZ).
1. Mục tiêu sóng A:
Sau mô hình Ending Diagonal (ED) trong sóng (5) thì sóng A hồi về sóng 2 của mô hình Ending Diagonal (ED) này.
Khi
sóng A là một phần của mô hình Contracting Triangle (CT), sóng (B) hoặc
sóng (4) thì nó thường hồi lại 38.2% của cả 5 sóng trước đó và đi vào
phạm vi sóng thứ 4 của 5 sóng này.
Trong
mô hình Zigzag (ZZ) thì sóng B hầu như hồi lại 38.2% hoặc 61.8% sóng A.
Trong mô hình Flat (FL) thì nó xấp xỉ bằng sóng A. Trong mô hình Flat
(FL) Irregular thì nó thường đi một khoảng cách bằng 138.2% sóng A.
3. Mục tiêu sóng C:
Sóng
C có chiều dài ít nhất là 61.8% sóng A. Nó có thể ngắn hơn trong trường
hợp mô hình Zigzag (ZZ) Running hoặc Flat (FL) Running trong đó sóng C
rất ngắn và không thể vượt qua điểm cuối của sóng A.
Nhìn
chung sóng C bằng với sóng A hoặc đi một khoảng cách bằng 161.8% sóng
A. Sóng C thường đạt 161.8% chiều dài sóng a trong mô hình Flat (FL)
Irregular.
Trong
mô hình Contracting Triangle (CT) thì sóng C thường bằng 61.8% sóng A.
Trong mô hình Expanding Triangle (ET) thì sóng C thường bằng 161.8% sóng
A.
4. Mục tiêu sóng D:
Trong
mô hình Contracting Triangle (CT) thì sóng D thường bằng 61.8% sóng B.
Trong mô hình Expanding Triangle (ET) thì sóng C thường bằng 161.8% sóng
B.
5. Mục tiêu sóng E:
Trong
mô hình Contracting Triangle (CT) thì sóng E thường bằng 61.8% sóng C.
Trong mô hình Expanding Triangle (ET) thì sóng E thường bằng 161.8% sóng
C.
6. Mục tiêu sóng X:
Sóng X tối thiểu hồi lại 38.2% quá trình điều chỉnh A-B-C trước đó; một mức hồi lại 61.8% cũng phổ biến đối với sóng X.